Phân tích tác động của tiền lương bình quân đến năng suất cần lao trong nền kinh tế tại hội thảo “Xu hướng vững mạnh của cần lao trong các loại hình công ty ở Việt Nam”, TS Trần Thị Minh Phương (Trường ĐH Lao động – xã hội) cho rằng, tiền lương là nguồn thu nhập chính để duy trì và tăng tiến đời sống cho bản thân người cần lao, gia đình của họ và tái sản xuất sức cần lao của người cần lao.
![]() |
Tiền lương ở Việt Nam được thẩm định là phải chăng, lương tối thiểu vùng tăng nhưng chưa đáp ứng mức sống tối thiểu của người cần lao. |
Theo TS. Phương, về quy tắc, tiền lương được trả phụ thuộc vào kết quả đầu ra và gắn với năng suất của người cần lao, tăng lương phải dựa trên tăng năng suất cần lao. Tuy nhiên, tiền lương cũng cần bảo đảm đủ sống và kích thích tăng năng suất cần lao. Tiền lương phải được coi là sự đầu tư vào vốn con người, đầu tư cho vững mạnh, là nguyên tố quy chế tăng tiến năng lực khó khăn của hàng hóa.
“Tiền lương ở Việt Nam được thẩm định là hơi phải chăng. Điều này 1 mặt tạo ưu thế khó khăn trong lôi kéo vốn đầu tư nước ngoài. Mặt hơic, tiền lương phải chăng cũng tạo nên nhiều vấn đề trong quan hệ cần lao. Tranh chấp cần lao chính yếu là về vấn đề tiền lương; hơn 80% các cuộc giới hạn việc tập thể là đòi tăng lương hoặc trả đúng lương, nhất là lương khiến cho thêm giờ, tiền thưởng, ăn giữa ca…”, bà Phương kể.
Do đó, bà Phương cho rằng, sự điều chỉnh chính sách tiền lương của Nhà nước cũng như của công ty cấp thiết phải coi xét đến lợi ích của người cần lao nhằm xác định được mức lương xứng đáng với đóng góp của người cần lao. Đó là động lực để người cần lao cống hiến, góp phần thúc đẩy năng suất cần lao chung trong nền kinh tế.
Cũng kể về vấn đề tiền lương, PGS. TS. Vũ Quang Thọ, Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn cứ liệu: Từ năm 2007-2015, mức lương tối thiểu chung (mức lương cơ sở vật chất) vận dụng trong gianh giới hành chính, sự nghiệp và các công ty nhà nước tăng 155,6% (từ 450.000 đồng lên 1.150.000 đồng). Năm 2016 tăng lên 1.210.000 đồng; năm 2017 tăng lên 1.300.000 đồng và quy định chỉ vận dụng cho gianh giới hành chính, sự nghiệp, nhóm vũ trang.
Từ năm 2007-2017, mức lương tối thiểu vùng vận dụng trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tăng 279,0% (từ 790.000 đồng lên 3.137.500 đồng); mức lương tối thiểu vận dụng trong các công ty tư doanh tăng 497,0% (từ 450.000 đồng lên 3.137.500 đồng).
“Mặc dù theo quy định của Bộ Luật Lao động, mức lương tối thiểu là mức phải chăng nhất trả cho NLĐ khiến cho thuê việc giản đơn nhất, trong điều kiện cần lao thường nhật và phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người cần lao và gia đình họ và mức lương tối thiểu vùng vận dụng ở gianh giới công ty những năm cách đây không lâu tăng liên tục với tỷ lệ hơi cao, song vẫn không đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người cần lao, do mức lương tối thiểu chung trước đây quá phải chăng”, ông Thọ kể.
Cũng theo ông Thọ, mức lương tối thiểu Chính phủ quy định chỉ là mức sàn nhằm giảm thiểu việc trả lương tùy một thể quá phải chăng, chống bóc lột, khiến cho cơ sở vật chất để các công ty vun đắp thang, bảng lương, bảo đảm mức lương bậc 1 chưa qua tập huấn, không phải chăng hơn mức lương tối thiểu vùng. Tuy nhiên, các công ty đã lạm dụng mức này để trả lương cho toàn bộ người cần lao, nên mức lương căn bản, mức lương khiến cho tiêu chí đóng bảo hiểm xã hội cho người cần lao rất phải chăng, chỉ trên mức lương tối thiểu vùng khoảng 15%.
Trước thực trạng này, 1 trong những khuyến nghị chính sách đáng chú ý mà ông Thọ đưa ra, đó là Chính phủ cần có lịch trình và chỉ đạo thực hành điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng đáp ứng mức sống tối thiểu của người cần lao vào năm 2018.
Giao cho cơ quan nhà nước (Tổng cục Thống kê) tính toán mức sống tối thiểu, định kỳ hàng năm ban bố để các bên trong Hội đồng Tiền lương Quốc gia khiến cho tiêu chí giao dịch; giảm vùng lương xuống 3 vùng; coi xét tăng thêm thành viên Hội đồng Tiền lương Quốc gia là các nhà nghiên cứu, có thông tỏ về tiền lương, lương tổi thiểu để bảo đảm tính hơich quan, kỹ thuật.